ĐỂ DẠY TỐT CHƯƠNG TIÊU HÓA
I. NHẬN ĐỊNH TÌNH HÌNH:
Trước tình hình gia tăng dân số như hiện nay,
vấn đề lương thực phẩm là một trong những mối quan tâm hàng đầu của
nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Bên cạnh những em
thiếu thức ăn dẫn tới suy dinh dưỡng và hiện tượng trẻ em béo phì
ngày càng gia tăng do ăn uống quá độ, một phần do quan niệm sai lầm
của các bậc phụ huynh muốn trẻ “ăn nhanh chống lớn”. Đối với học
sinh thì chế độ ăn uống đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát
triển thể chất, trí tuệ sức khỏe của các em sau này, vì thế sự
hiểu biết về các cơ quan tiêu hóa sẽ góp phần có ích trong việc lập
khẩu phần, cải tiến phương pháp ăn uống cho khoa học, hợp lí là điều
cấp thiết.
Đặt
biệt là ở nông thôn, những hiểu biết về kiến thức khoa học còn rất
hạn chế, về chế độ và phương pháp ăn uống ít được các bậc phụ
huynh quan tâm hoặc vì hoàn cảnh sống hoặc vì hoàn cảnh sống gia
đình, ….
Bài đầu tiên của chương “Hệ tiêu hóa” (lớp 8)
là tìm hiểu về “hệ tiêu hóa và các cơ quan tiêu hóa”, nắm được cấu
tạo và chứcnăng của các cơ quan tiêu hóa thì học sinh sẽ hiều sâu hơn
về hoạt động sinh lí của hệ tiêu hóa. Từ đó hình thành quan niệm
đúng đắn về việc ăn uống và bảo vệ sức khỏe, kiến thức này góp
phần không nhỏ trong việc phát triển thể lực, thể chất của thế hệ
sau này.
Nhưng để giúp học sinh hiểu và áp dụng được
những kiến thức khoa học ấy là một đều không đơn giản, kết quả học
tập các năm qua chất lượng giản dạy ở bộ môn sinh học 8 (đặt biệt là chương tiêu hóa)
còn thấp, học sinh cho rằng kiến thức này không thực tế, khó hiều
vì nhiều người ăn uống có đủ chất đâu nhưng họ vẫn khỏe mạnh, mập
mạp, ….
Là
một giáo viên trực tiếp giảng dạy bộ môn sinh, tôi rất lo lắng và
trăn trở trước tình hình này, qua nghiên cứu tìm hiểu, tôi phát hiện
ra nguyên nhân vì sao học sinh học yếu:
- Do ảnh hưởng hoàn cảnh sống của gia đình, do
trình độ nhận thức của các em còn chậm (vì đây là vùng dân tộc
Khmer nghèo).
- Mặt khác do giáo viên chưa xác định được mục
tiêu chính yếu của bài dạy nên hướng dẫn tràn lan làm nội dung bài
học khá dài tạo cảm giác mẹt mỏi cho học sinh cộng với tâm lí xem
nhẹ bộ môn sinh vì cho rằng đây không phải là môn chính.
- Giáo viên chỉ đơn thuần mô tả lại những kiến
thức đã có trong SGK nên tiết học khô khan, gây nhàm chán. Không sừ
dụng mô hình, không sử dụng mô hình tranh ảnh nên học sinh không thể
hình dung được cấu tạo và hiểu được chức năng của các cơ quan dẫn
tới những vấn đề cung cấp cho các em trở nên xa lạ không thực tế.
Từ
những nhận định trên tôi đã tiến hành thực hiện các vấn đề sau:
II. CÁC BƯỚC THỰC HIỆN
1. Xác định mục tiêu bài dạy:
Đây là phần quan trọng là thao tác đầu tiên của
việc giảng dạy nếu xác định sai mục tiêu thì kiến thức hướng dẫn
học sinh sẽ bị sai lệch đôi khi dẫn đến phản tác dụng. Ví dụ trong
bài “Tiêu hóa và các cơ quan tiêu hóa” qua bài này học sinh phải hiểu
được vai trò của sự tiêu hóa là biến đổi thức ăn từ nhừng chất đơn
giản hòa tan vào máu để đưa đến các tế bào của cơ thể và học sinh
phải nắm được khái quát các cơ quan của tiêu hóa và chức năng của
chúng. Để làm được vấn đề này, đòi hỏi giáo viên phải nghiên cứu
kĩ nôi dung bài này.
2. Đảm bảo chính xác khoa học:
Đây là kiến thức về khoa học nên phải đảm bảo
được tính khoa học- chính xác, không được sai dù bất cứ vấn đề gì,
vì thông qua kiến thức đó sẽ giúp học sinh hiểu đúng vấn đề và áp
dụng vào đời sống một cách chính xác. Muốn thế thì người giáo viên
phải có một kiến thức sâu và rộng, không ngừng học hỏi và nâng cao
tay nghề bằng nhiều hình thức: Tham khảo tài liệu, dự giờ, thao
giảng, trao đổi đồng nghiệp, ….
3. Lựa chọn và vận dụng nhiều
phương pháp giảng dạy để làm rõ nội dung bài học:
Phương pháp sử dụng trong mỗi tiết dạy đòng vai
trò vô cùng quan trọng học sinh có hứng thú hay không, có chiếm lĩnh
được kiến thức hay không là do phương pháp giảng dạy của giáo viên,
việc sử dụng phương pháp nào tùy thuộc giáo viên không có một qui
định nào buộc giáo viên phải áp dụng phương pháp này hay phương pháp
khác vì mỗi môn, mỗi bài, mỗi đối tượng điều có sự khác nhau. Tuy
nhiêm mỗi môn điều có những phương pháp đặc trưng của nó giáo viên
phải biết lựa chọn, tách lọc, sắp xếp các phương pháp sao cho phù
hợp, phát huy tính tích cực, tư duy ở học sinh để đạt hiệu quả giáo
dục cao. Tôi xin trình bày hai phương pháp nên có trong mỗi tiết dạy
môn sinh (nhất là chương tiêu hóa):
a. Nêu những ví dụ gần gũi với thực tiễn, liên
quan đến đời sống:
Ngoài những thông tin trong SGK, giáo viên tìm
cách đưa vào bài học những thông tin mới lạ và gần gũi để lôi cuốn
sự chú ý của học sinh vào bài giảng.
Ví dụ khi nói đến ý nghĩa của sự tiêu hóa là
quá trình biến đổi chất nêu ra những câu hỏi: Rắn độc cắn thì gây
chết người nhưng người ta uống nọc rắn độc thì có chết không? Câu
này thì sẽ kích thích sự tò mò của học sinh và có nhiều suy đoán
từ phía học sinh.
Học sinh cũng thích thú biết rằng mặc dù nước
mắm là một thứ nước chấm hằng
ngày trong các bửa ăn hằng ngày nhưng nếu tiêm thẳng vào tĩnh mạch, không qua tiêu hóa thì sẽ gây
choáng Prôtêin và chết. Tại sao có hiện tượng? Trả lời được các câu
hỏi này học sinh sẽ lĩnh hội được bản chất của sự tiêu hóa là sự
biến đổi các chất.
Một điều tưởng chừng như rất dễ dàng nhưng các
em lại không để ý đến. Ví dụ khi tôi hỏi: “Một người trưởng thành
có bao nhiêu cái răng?”. Thật bất ngờ khi các em trả lời mỗi em mỗi
khác: 25, 26, 27, 32, 34 thậm chí 36.
Việc cung cấp thêm gợi mở thêm những kiến thức
liên quan tới đời sống với thực tế giúp các em có niềm tin với bộ
môn và giúp tiết học trở nên gần gũi thân thiết với học sinh.
b. Sử dụng có hiệu quả đồ dùng dạy học:
Phương pháp trực quan đóng vai trò quan trọng
trong việc giảng dạy vì có câu “Trăm nghe không bằng một thấy” đây là
“nguồn” dẫn đến kiến thức, việc quan sát hay sờ nắn các vật thật
hay mô hình sẽ giúp học sinh hiểu chính xác hình dạng, màu sắc,
kích thước của đối tượng nghiên cứu.
Trong trường hợp các phương tiện này không có
để sử dụng thì tranh vẽ là một thay thế tối ưu. Ngoài các tranh vẽ
ở SGK, giáo viên phải sử dụng các tranh trong bộ thiết bị được cung
cấp, khi cần có thể phóng to tranh ở SGK để học sinh dễ quan sát.
Ngoài ra, tôi còn cho học sinh làm thêm một số đồ dùng dạy học như:
vẽ thêm tranh, chọn mẫu tươi, làm dụng cụ thí nghiệm (lưu ý: lựa
chọn đơn giản, dễ làm phải đảm bảo tín chính xác cao).
Đồ
dùng dạy học có thể dùng để giới thiệu bài; để xây dựng khái niệm
mới để chứng minh kiến thức; để thuyết trình, diễm giải nội dung
hoặc để củng cố kiến thức vừa học.
4. Nêu được tính thống nhất giữa
cấu tạo và chức năng:
Với môn sinh, giữa cấu tạo và chức năng các cơ
quan của bất kì động hay thực vật
nào đều có mối quan hệ với nhau, thống nhất với nhau nên việc nắm
rõ cấu tạo sẽ giúp các em tìm hiểu rõ chức năng và khi hiểu rõ
chức năng sẽ giúp củng cố vể mặt cấu tạo.
Ví
dụ khi thấy được hình dạng các loại răng, tôi giúp các em hiểu rõ
chức năng của từng loại; với cấu tạo như thế thì loại nào dùng để
cắt, loại nào đề xé, loại nào để nghiền, ….
Về
ruột: Tại sao ruột lại rất dài? Có tác dụng gì? Tại sao thành dạ
dày lại có thêm lớp cơ chéo, ….
5. Rèn luyện kĩ năng ứng dụng vào
thực tế và giáo dục tư tưởng:
Nhiệm vụ của giáo viên là thông qua nội dung bộ
môn giúp học sinh lĩnh hội kiến thức và áp dụng kiến thức đó vào
cuộc sống. Riêng chương tiêu hóa ở bộ môn sinh 8 là giúp các em có ý
thức bảo vệ sức khỏe bản thân, mọi người xung quanh và bảo vệ môi
trường. Vì thế ngoài việc hướng dẫn kiến thức tôi còn lồng ghép để
giáo dục tư tưởng, thẩm mĩ và hành vi các kiến thức ứng dụng trong
cuộc sống.
Ví dụ khi nói về vai trò của thức ăn là để
xây dựng các tế bào mới, nếu ăn quá nhiều sẽ đưa đến bệnh béo phì
làm cho ta vừa xấu về mặt hình thức vừa nguy hiểm về sức khỏe (béo
phì là bệnh đồng hành của các bệnh tiểu đường, tim mạch); ngược
lại một số người ( thường là nữ giới) hay nhịn ăn để giữ dáng thì
rất có hại cho sức khỏe và sự phát triển của cơ thể, trí nảo nhất
là ở tuổi đang lớn. Vậy nên ăn uống điều độ và đủ chất là cần
thiết.
Tại
sao phải vệ sinh răng miệng thường xuyên (nhất là sau các bữa ăn)? Răng
trắng sạch không chỉ là thẩm mĩ mà còn là ngăn ngừa bệnh sâu răng
(sâu răng có nguy cơ gây bệnh tim vì những vi khuẩn sâu răng tích tựu
theo đường máu đến tim làm ảnh hưởng đến hoạt động tim mạch).
Câu tục ngữ “nhai kĩ no lâu, cày sâu lúa tốt”
của ông cha ta, không phải là không có cơ sở vì nhai kĩ vừa giúp cảm
giác ngon miệng, giúp cơ thể hấp thụ tốt chất dinh dưỡng đồng thời
thức ăn ở miệng được ngiền nát giúp dạ dày ít co bóp nhiều làm giảm
nguy cơ đau dạ dày; ăn quà vặt đồng nghĩa với đau dạ dày vì bắt dạ
dày làm việc liên tục.
Ruột thừa là phần chưa được tiêu hết trong quá
trình tiến hóa. Mặc dù không giữ chức năng gì nhưng nó cũng rất nguy
hiểm nếu bị viêm nhiễm. Nên cho biết học sinh biết những triệu chứng
của bệnh đau ruột thừa: sốt, ối mữa kèm theo đau bụng ở vùng bên
phải, đè mạnh vào sẽ có cảm giác đau nhói, … nên nhờ người thân đưa
ngay đến bác sĩ để điều trị kịp thời....(còn tiếp)
NGUYỄN THỊ THU Nguồn Di Thanh Tuấn
Download chuyên đề: Bui Thanh Liem, 07.05.2009
|